Phụ Nữ Trong Kinh Thánh Bài 2
Aga
Người con gái nô lệ Ai-cập
(Bài 2)
Kính thưa quý độc giả, qua trang Phụ Nữ Trong Kinh Thánh kỳ trước, chúng ta đã biết một vài điều về bà A-ga như sau: A-ga là cô gái nô lệAi-cập được Áp-ra-ham mua khi ông sang Ai cập tránh nạn đói. A-ga là nàng hầu của Sa-ra, vợ Áp-ra-ham. Sau một thời gian chờ đợi không thấy lời hứa của Chúa được thành, Sa-ra đã dùng A-ga làm con cờ trong mưu tính có vẻ như là khôn ngoan của bà. Mưu tính đó là cho A-ga làm hầu thiếp của Áp-ra-ham để nàng sinh con cho ông bà. Tuy nhiên, khi biết mình có thai thì A-ga thay đổi thái độ, tỏ vẻ khinh khi bà chủ. Điềuđó khiến Sa-ra tức giận, bà phàn nàn với chồng và khi được chồng cho phép, bà bắt đầu hành hạ A-ga.
A-ga trong cảnh khốn cùng
Từ khi Áp-ra-ham nói với Sa-ra: “Nầy con đòi đó ở trong tay ngươi, phân xử thể nào mặc ý ngươi cho vừa dạ,” có lẽ bà Sa-ra đã đối xử với A-ga rất tàn tệ. Vì thế dù biết mình yếu đuối và cô đơn, A-ga đã phải bỏ nhàđi trốn. Ra khỏi nhà Áp-ra-ham, A-ga không biết đi đâu nên nàng định quay trở về quê hương là Ai cập. Chúng ta biết điều đó vì Kinh Thánh ghi rằng thiên sứ của Đức Giê-hô-va thấy A-ga “nơi mé đường đi về Su-rơ.” Su-rơ là địa điểm gần biên giới Ai cập. Sáng thế ký 16:6,7 ghi: “Đoạn Sa-rai hành hạ A-ga thì nàng trốn đi khỏi mặt người. Nhưng thiên sứ của Đức Giê-hô-va thấy nàng ở trong đồng vắng, gần bên suối nước, nơi mé đường đi về Su-rơ.” Vì bà chủ hành hạ, A-ga bỏ nhà đi trốn. Theo luật thời đó, nô lệ hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của chủ, không có phép trốn đi khỏi nhà chủ, bất cứ vì lý do gì. Hành động của A-ga là sai, vì nàng bỏ trốn chứ không phải được chủ cho phép đi. Dù Sa-ra cư xửkhông phải lẽ và thiếu lòng nhân đối với một người nô lệ, nhưng A-ga không có phép bỏ nhà chủ đi.
Ra khỏi nhà Áp-ra-ham, A-ga không những vi phạm luật nhưng cũng ở trong một hoàn cảnh thật cùng khốn: Một phụ nữ yếu đuối đơn độc, mệt mỏi vì đang có thai, lại không nơi che mưa nắng, không chỗ nằm nghỉ, ở trong một nơiđầy dẫy thú dữ, rắn rết. Nếu gặp được người chưa chắc đó là người tốt, sẽ cứu mình. A-gađương đầu với một hoàn cảnh thật đen tối. Không biết đi đâu, cũng không biết cầu cứu ai, nàng bèn nghĩ đến Ai cập, nơi quê hương đó có thể nàng sẽ tìm được sự giúp đỡ. Nghĩ thế, A-ga đi về hướng Su-rơ, gần biên giới Ai cập.
A-ga gặp thiên sứ của Chúa
Đức Chúa Trời biết rõ hoàn cảnh khốn cùng của A-ga nên Ngài đã sai thiên sứ đến giúp. Kinh Thánh ghi: “Nhưng thiên sứ của Đức Giê-hô-va thấy nàng trong đồng vắng gần bên suối nước, nơi mé đường đi về Su-rơ, thì hỏi rằng: Hỡi A-ga, đòi của Sa-rai, ngươi ở đâu đến và sẽ đi đâu? Nàng thưa rằng: Tôi lánh xa mặt Sa-rai, chủ tôi” (Sáng 16:7, 8). A-ga thành thật trả lời thiên sứ là nàng đi trốn khỏi chủ là Sa-rai. Thiên sứthấy hoàn cảnh nguy hiểm và tuyệt vọng của A-ga, cũng biết điều nàng làm là không đúng nên thiên sứ đã khuyên bảo, khích lệ và hướng dẫn nàng thật tận tình. Kinh Thánh ghi: “Thiên sứ của Đức Giê-hô-va dạy nàng rằng: ngươi hãy trở về chủ ngươi và chịu lụy dưới tay người. Thiên sứ của Đức Giê-hô-va lại phán rằng: Ta sẽ thêm dòng dõi ngươi nhiều,đông đảo đến đỗi người ta đếm không đặng nữa. Lại phán rằng: Nầy, ngươi đang có thai, sẽ sanh một trai, đặt tên là Ích-ma-ên; vì Đức Giê-hô-va có nghe sự sầu khổ của ngươi. Đứa trẻ đó sẽ như một con lừa rừng, tay nó sẽ địch cùng mọi người, và tay mọi người địch lại nó. Nó sẽở về phía đông, đối mặt cùng hết thảy anh em mình” (Sáng 16:9-12).
Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương nhưng cũng là Đấng thánh khiết và công bình, Ngài muốn giúp A-ga nhưng trước hết, nàng phải vâng lời Chúa, làm điều mình phải làm. Chúa biết vì sao A-ga đi vào nơi đồng vắng nhưng Ngài vẫn hỏi để xem A-ga trả lời như thế nào. Khi thấy A-ga nói thật, Chúa bảo: “Hãy trở về với chủ ngươi và chịu lụy dưới tay người.” Đây là một mạng lệnh thật khó cho A-ga vâng theo. Vì không chịu nổi sự đối xử tàn ác của Sa-rai, A-ga đã phải chạy trốn. Bây giờthiên sứ bảo nàng hãy trở về, chịu lụy dưới tay chủ. Để an ủi và khích lệA-ga, Chúa hứa Ngài sẽ làm cho dòng dõi của A-ga thêm nhiều, đôngđảo đến nỗi người ta không đếm được. Chúa sẽ ban cho nàng một đứa con trai, vì Ngài đã nghe nỗi sầu khổ của nàng.
Dù A-ga là một nô lệ ngoại bang, người Ai cập, một dân tộc thờ hình tượng và không nhìn biếtĐức Chúa Trời, nhưng có lẽ trong thời gian sống với gia đình Áp-ra-ham, bà nhìn thấy đức tin trong đời sống của chủ mình nên bà đã nhậnĐức Chúa Trời của Áp-ra-ham làm Đức Chúa Trời của chính mình. Tại bên giếng nước trong đồng vắng, A-ga đã gặp Chúa một cách cụ thể và cá nhân. Đức tin của A-ga được củng cố, nàng kinh nghiệm sự thăm viếng của Chúa nên nàng gọi Chúa là “Đức Chúa Trời hay đoái xem.” Kinh Thánh ghi: “Nàng gọi Đức Giê-hô-va mà đã phán cùng mình, danh là “Đức Chúa Trời hay đoái xem,” vì nàng nói rằng: Chính tại đây tôi há chẳng có thấy được Đấngđoái xem tôi sao? Bởi cớ ấy, người ta gọi cái giếng nầy ở về khoảng giữa của Ca-đe và Bê-re, là giếng La-chai-roi” (Sáng thế ký 16:13,14).
Dù A-ga là người bất toàn, bà có lỗi vì đã kiêu ngạo, xem thường chủ khi thấy mình hơn chủ, nhưng Đức Chúa Trời vẫn yêu thương và đoái đến A-ga. Chúa vẫn cho nàng cơ hội được hưởng ơn lành của Chúa, nhưng nàng phải vâng lời Ngài. Ngày nay chúng ta cũng là những con người bất toàn, làm nhiều điều không đẹp lòng Chúa. Tuy nhiên không vì vậy mà Chúa bỏ mặc chúng ta, nhất là khi chúng ta rơi vào những hoàn cảnh bi đát tuyệt vọng. Trái lại, nếu chúng ta có đức tin và sẵn sàng thuận phục ý Chúa, Ngài sẽ đoái xem, hướng dẫn và cứu giúp chúng ta ra khỏi hoàn cảnh khó khăn.
A-ga vâng lời thiên sứ
Tuy Kinh Thánh không nói rõ ràng nhưng chúng ta biết A-ga đã tin vào lời hứa của Chúa và đã vâng lời Chúa, quay trở về nhà Áp-ra-ham, vì Kinh Thánh ghi rằng nàng đã sinh con trong nhà Áp-ra-ham. Sáng thếký 16:15-16 ghi: “Rồi nàng A-ga sinh được một con trai, Áp-ram đặt tênđứa trai đó là Ích-ma-ên. Vả lại, khi A-ga sinh Ích-ma-ên cho Áp-ram, thì Áp-ram đã được tám mươi sáu tuổi.” A-ga không những vâng lời thiên sứtrở về nhà chủ và sinh con trong nhà chủ nhưng nàng cũng nói cho Áp-ra-ham biết tên thiên sứ đặt cho đứa bé, vì thế Áp-ra-ham đặt tên nó là Ích-ma-ên, đúng như lời thiên sứ phán bảo. Trong hoạn nạn, A-ga đãđược Chúa thăm viếng, an ủi. Ngài hứa ban phước cho con của A-ga, nhưng trước hết nàng phải vâng theo lời Ngài phán dạy. Điều Chúa muốn A-ga vâng theo thật là khó chấp nhận và đi ngược với điều nàng mong ước nhưng A-ga đã vâng lời và Chúa đã ban phước cho nàng.
A-ga không những vâng lời Chúa, trở lại nhà chủ Áp-ra-ham nhưng bà cũng đã bằng lòng sống dưới quyền của chủ, trong một khung cảnh thiếu yêu thương, thiếu tự do trong suốt một thời gian dài. Kinh Thánh cho biết, khi Ích-ma-ên ra đời, Áp-ra-ham được 86 tuổi và cũng cho biết, khi Y-sác, đứa con của lời hứa, được sinh ra thì Áp-ra-ham đã 100 tuổi (Sáng 21:5). Như vậy A-ga đã tiếp tục sống trong nhà Áp-ra-ham suốt 14 năm với con là Ích-ma-ên trong khi đứa con Chúa hứa cho ông bà Áp-ra-ham vẫn chưa chào đời.
Mối quan hệ không tốt đẹp giữa A-ga và Sa-ra
Dù Kinh Thánh không ghi lại nhiều về mối quan hệ giữa Sa-ra và A-ga trong thời gian này nhưng chúng ta có thể tưởng tượng được sự căng thẳng và ganh tị giữa hai người. Khi Ích-ma-ên chưa sinh ra, mối quan hệ giữa Sa-ra và A-ga đã không tốt đẹp. A-ga khinh khi Sa-ra, còn Sa-ra thì ganh ghét A-ga. Khi hai người đàn bà cùng yêu thương hay có quan hệ mật thiết với cùng một người đàn ông thì không thể nào thương nhau hay hòa thuận với nhau, đó là điều tự nhiên. Hơn nữa, trong hoàn cảnh của Sa-ra, mỗi ngày nhìn thấy đứa con trai mà A-ga đã sinh cho chồng mình có lẽ bà càng buồn giận và ganh tức, nhất là khi lời Chúa hứa cho bà vẫn chưa thành sự thật. Chờ đợi lời Chúa hứa được thành trong suốt mười bốn năm trong một hoàn cảnh như thế không phải là dễ. Nhưng sau khi Y-sác ra đời, sự căng thẳng giữa Sa-ra và A-ga không giảm bớt mà lại còn gia tăng. Bây giờ không chỉ có sự ganh tị giữa hai bà mẹ mà còn có sự cạnh tranh quyền lợi giữa hai dòng con. Y-sác tuy nhỏtuổi hơn nhưng là con của bà lớn, còn Ích-ma-ên, tuy lớn tuổi hơn nhưng là con của bà nhỏ. Không những thế, Ích-ma-ên là con của nô lệ, còn Y-sác là con của lời hứa. Sự đố kỵ giữa hai bà mẹ đã ảnh hưởng đến haiđứa con. Y-sác còn nhỏ không biết gì, nhưng Ích-ma-ên, có lẽ qua những chuyện mẹ kể lại, cũng không ưa Y-sác.
Và sau đó, trong ngày lễ mừng Y-sác thôi bú, bà Sa-rai hầu như không chấp nhận sự có mặt của A-ga và Ích-ma-ên trong gia đình bà nữa. Kinh Thánh ghi lại như sau: “Khi Y-sác ra đời thì Áp-ra-ham đã được một trăm tuổi. ... Đứa trẻ lớn lên thì thôi bú. Chánh ngày Y-sác thôi bú, Áp-ra-ham bày một tiệc lớn ăn mừng. Sa-ra thấy đứa trai của A-ga, người Ê-díp-tôđã sinh cho Áp-ra-ham cười cợt thì người nói với Áp-ra-ham rằng: Hãyđuổi con đòi với con nó đi đi, vì đứa trai của con đòi này sẽ chẳng được kế nghiệp cùng con trai tôi là Y-sác đâu. Lời này lấy làm buồn lòng Áp-ra-ham lắm, vì cớ con trai mình” (Sáng 21:5, 8-11).
Bằng chứng rõ ràng về mối quan hệ không tốt đẹp giữa Sa-ra và A-ga là trong ngày tiệc mừng Y-sác thôi bú, vì Ích-ma-ên nhạo cười, Sa-ra đã xin Áp-ra-ham đuổi cả hai mẹ con A-ga ra khỏi nhà. Theo lệ của người Do Thái, khi đứa bé được khoảng ba tuổi thì thôi bú, và Áp-ra-ham đã mở một tiệc lớnăn mừng. Nếu Y-sác được ba tuổi thì Ích-ma-ên lúc đó khoảng mười bảy tuổi. Trong bữa tiệc này Ích-ma-ên nhạo cười Y-sác. Thấy điều đó bà Sa-ra không chịu được nên xin Áp-ra-ham đuổi A-ga và Ích-ma-ên đi. Thật ra, đây chỉ là giọt nước cuối cùng khiến cho nước trong ly tràn ra mà thôi. Cũng có thể vì ảnh hưởng của hai bà mẹ mà hai đứa con trong giađình cũng không có mối quan hệ tốt với nhau. Bà Sa-ra có lẽ muốn đuổi hai mẹ con A-ga từ lâu nhưng không có lý do chính đáng, hơn nữa bà không chắc mình có thể sinh con cho Áp-ra-ham như lời Chúa hứa hay không. Bây giờ đã có Y-sác, là đứa con kế tự do chính mình sinh ra, Sa-ra thấy không còn lý do gì phải chịu đựng hai mẹ con A-ga nữa. Hơn nữa Sa-ra nghĩ, nếu tiếp tục để hai mẹ con A-ga sống trong gia đình, một ngày kia bà sẽ phải chia gia tài cho Ích-ma-ên, vì đó cũng là con của Áp-ra-ham. Vì lòng ích kỷ và ganh ghét, Sa-ra đã làm áp lực để Áp-ra-hamđuổi A-ga và đứa con trai đi.
Trong ngày tiệc mừng Y-sác thôi bú, cũng có thể A-ga buồn vì con của bà không được ưu đãi như thế, còn Ích-ma-ên cũng ganh tị nên đã cười cợt và trêu chọc Y-sác. Chữ “cười cợt” trong Sáng thế ký 21:9 trong nguyên ngữ có nghĩa là chế giễu, nhạo báng; dùng lời nói, giọng nói hay tiếng cười để bày tỏ lòng khinh khi, khinh miệt. Sa-ra nhìn thấy nhữngđiều Ích-ma-ên làm, bàø vốn đã không ưa Ích-ma-ên, bây giờ cậu bé còn trêu chọc, cười cợt vô lễ, Sa-ra không thể chấp nhận được nên bà bảo Áp-ra-ham đuổi hai mẹ con A-ga đi. Ngày nào A-ga và Ích-ma-ên còn ở trong nhà, Sa-ra không những còn phải nhìn thấy những người khinh khi chế nhạo bà nhưng sự có mặt của hai người cũng nhắc cho bà nhớ lỗi lầm lớn lao của bà trước kia. Vì thế, cách đơn giản nhất để giải quyết vấn đề là đuổi hai mẹ con A-ga đi. Lần này, Sa-ra không những muốn đuổi mẹ con A-ga ra khỏi nhà và ra khỏi gia đình bà nhưng cũng vĩnh viễn ra khỏi cuộc đời bà.
Nỗi khổ của Áp-ra-ham
Tuy Kinh Thánh chỉ ghi mấy câu ngắn ngủi nhưng chúng ta có thể tưởng tượng được tình trạng căng thẳng trong gia đình Áp-ra-ham. Thay vì vui mừng được bế trong tay đứa con mà Chúa hứa ban cho mình đã bao nhiêu năm nay, và sung sướng trong ngày tiệc mừng Y-sác thôi bú, trong gia đình Áp-ra ham có sự đố kỵ và ganh ghét, sự có mặt của Ích-ma-ên đã khiến niềm vui của Sa-ra và Áp-ra-ham không trọn vẹn. Thật ra, Áp-ra-ham đã rất buồn lòng trước những sự việc xảy ra, nhất là trước lời yêu cầu của Sa-ra. Kinh Thánh cho biết, khi Sa-ra yêu cầu đuổi mẹcon A-ga ra khỏi nhà, Áp-ra-ham rất đau buồn trước lời yêu cầu đó vì ông cũng thương yêu Ích-ma-ên. Từ ngày Áp-ra-ham đi ra ngoài ý Chúa và làm theo lời vợ cho đến lúc này, ông đã phải đối diện với những chuyện thật nan giải. Nan đề của gia đình Áp-ra-ham cũng là điều chúng ta thấy trong nhiều gia đình ngày nay. Sự căng thẳng, đố kỵ, ganh ghét là điều không thể tránh được trong những gia đình có nhiều vợ, nhiều chồng và nhiều dòng con khác nhau.
Chương trình của Đức Chúa Trời khi thiết lập hôn nhân là, hôn nhân là kết hợp giữa một người nam và một người nữ, và hai người ràng buộc với nhau suốt đời. Vì bản tính tội lỗi, con người đã đi ra ngoài chương trình tốt đẹp của Chúa, đã làm theo ý riêng, chạy theo những ham muốn riêng. Nhiều người không tôn trọng hôn nhân, không ràng buộc với vợ/chồng suốt đời nhưng thay vợ đổi chồng một cách dễ dàng hoặc không chung thủy với nhau và phạm tội ngoại tình. Từ đó sinh ra nhiều nan đề trong gia đình. Kết quả là gia đình thiếu hiệp nhất, yêu thương nhưng đầy dẫy tranh cạnh và ganh ghét. Hậu quả mà Áp-ra-ham và Sa-ra phải gặt lấy khi làm theo ý riêng là gia đình mất yên vui hạnh phúc. Tương tự như thế, ngày nay nhiều gia đình trong hội thánh của Chúa cũng sống trong tình trạng thiếu yên vui hạnh phúc vì chúng ta đã đi theo ý riêng thay vì sống theo lời Chúa dạy. Xin Chúa giúp chúng ta nhìn thấy những khó khăn trong gia đình Áp-ra-ham cũng như những gia đình trong hoàn cảnh tương tự chung quanh chúng ta, và quyết tâm sống theo tiêu chuẩn của Kinh Thánh, giữ cho quan hệ vợ chồng được bền chặt tốt đẹp cho đến cuối cùng. Sống theo Lời Chúa dạy, chúng ta có thể phải hy sinh, phải chịu thiệt thòi về một mặt nào đó nhưng Chúa sẽ ban phước lại cho đời sống chúng ta và gia đình chúng ta bội phần hơn.
Dù Áp-ra-ham đã lầm lỗi và bây giờ phải gặt hái kết quả của lầm lỗi đó,Đức Chúa Trời vẫn yêu thương ông và giúp ông giải quyết nan đề. Kinh Thánh ghi: “Đức Chúa Trời phán cùng Áp-ra-ham rằng: ngươi chớ buồn bực vì con trai và con đòi ngươi. Sa-ra nói thể nào, hãy nghe theo tiếng người nói; vì do nơi Y-sác sẽ sanh ra dòng dõi lưu danh ngươi. Ta cũng sẽ làm cho đứa trai của con đòi trở nên một dân, vì nó cũng do nơi ngươi mà ra” (c.12,13). Sở dĩ lời yêu cầu của Sa-ra khiến Áp-ra-ham buồn vì Ích-ma-ên cũng là con của ông, cũng từ gan ruột ông mà ra. Sau gần mười bảy năm sống bên cạnh Ích-ma-ên, giữa hai cha con có một sựgần gũi, yêu thương nên Áp-ra-ham không muốn đuổi Ích-ma-ên và A-ga đi. Nhưng Đức Chúa Trời bảo ông hãy làm theo lời Sa-ra. Chúa hứa Ngài cũng sẽ ban phước cho Ích-ma-ên và khiến con cháu của Ích-ma-ên trở nên một dân tộc hùng mạnh, vì Ích-ma-ên cũng từ nơi Áp-ra-ham mà ra. Và một lần nữa, Áp-ra-ham đã vâng lời Chúa. Kinh Thánh ghi nhưsau: “Áp-ra-ham dậy sớm, lấy bánh và một bầu nước, đưa cho A-ga, đểcác món đó trên vai nàng, rồi đuổi đi” (Sáng 21:14).
A-ga ra khỏi nhà Áp-ra-ham và được thiên sứ cứu giúp lần thứ hai
Với lời hứa của Chúa, sáng hôm sau, Áp-ra-ham dậy sớm, chuẩn bịlương thực và nước uống cho hai mẹ con A-ga rồi vĩnh viễn chia tay hai người. Thật là một hình ảnh thương tâm. Một người đàn bà với đứa con trong tuổi thiếu niên làm sao có thể sống còn trong đồng vắng nguy hiểm, đầy thú dữ. Áp-ra-ham lo ngại lắm, nhưng với đức tin nơi lời hứa của Chúa, ông bằng lòng cho hai mẹ con A-ga lên đường. A-ga và Ích-ma-ên đi trong đồng vắng được ít lâu thì hết nước uống. Thấy con sắp bịchết vì khát, A-ga kêu khóc, và thiên sứ của Chúa đã đến cứu giúp. Chi tiết này cũng được Kinh Thánh ghi lại như sau:
“Nàng A-ga ra đi, đi dông dài trong đồng vắng Bê-e-Sê-ba. Khi nước trong bầu đã hết, nàng để đứa trẻ dưới một cội cây nhỏ kia, đi ngồi đối diện cách xa xa dài chừng một khoảng tên bắn; vì nói rằng: Ôi, tôi nỡnào thấy đứa trẻ phải chết! Nàng ngồi đối diện đó, cất tiếng la khóc.Đức Chúa Trời nghe tiếng đứa trẻ khóc thì thiên sứ của Đức Chúa Trời từtrên trời kêu nàng A-ga mà phán rằng: Hỡi A-ga, ngươi có điều chi vậy? Chớ sợ chi, vì Đức Chúa Trời đã nghe tiếng đứa trẻ ở đâu đó rồi. Hãyđứng dậy, đỡ lấy đứa trẻ và giơ tay nắm nó, vì ta sẽ làm cho nó nên một dân lớn” (Sáng 21:14-18).
Hoàn cảnh tuyệt vọng của A-ga đã trở thành cơ hội cho Đức Chúa Trời bày tỏ quyền năng và tình yêu của Ngài. Đây cũng là điều thường xảy ra trong cuộc đời người tin Chúa. Khi chúng ta gặp hoạn nạn và đến bướcđường cùng, nếu chúng ta kêu cầu Chúa với lòng nhờ cậy hoàn toàn, Chúa sẽ đoái nghe và bày tỏ quyền năng của Ngài để giải cứu chúng ta. Sau đó, Chúa mở mắt A-ga và bà nhìn thấy một cái giếng nước gần đó. Bà múc nước cho hai mẹ con uống và nhờ đó hai mẹ con được cứu sống. Khi A-ga đi khỏi nhà chủ, Áp-ra-ham cho bà một bình nước, và chẳng bao lâu bình nước cạn. Trong khi đó Chúa cho A-ga một cái giếng nước và cái giếng đã nuôi sống hai mẹ con A-ga trong bao nhiêu năm. Sự tiếp trợ của Chúa bao giờ cũng đúng với điều chúng ta cần và luôn luôn dưdật. Kinh Thánh cho biết, Đức Chúa Trời vùa giúp Ích-ma-ên, hai mẹ con tiếp tục sống trong đồng vắng Pha-ran. Đứa trẻ lớn lên, có tài bắn cung và sống về nghề săn bắn.
Đức Chúa Trời đã làm thành lời hứa của Ngài, khiến con cháu Ích-ma-ên trở nên một dân tộc hùng mạnh, nhưng điều đáng tiếc là A-ga đã quay trở về nguồn gốc thờ hình tượng của mình. A-ga cưới cho Ích-ma-ên một người vợ Ai-cập, và con cháu Ích-ma-ên không nhìn biết Đức Chúa Trời, không thờ phượng Ngài và sau này họ trở thành giống dân Ả-rập, là giòng giống thù nghịch với dân Israel, con cháu Áp-ra-ham và là tuyển dân của Chúa. Giống người Ả-rập cũng là con cháu Áp-ra-ham, nhưng từÍch-ma-ên mà ra, và người ta tin rằng, Mohammed, người sáng lập ra Hồi giáo là từ dòng dõi Áp-ra-ham và A-ga mà ra. Nhóm người theo Hồi giáo ngày nay rất đông và mạnh, tuy họ nói là họ thờ Đức Chúa Trời nhưng luôn chống nghịch với người Do Thái, tuyển dân của Chúa.
Sứ đồ Phao-lô khi viết thư cho các tín hữu tại thành phố Ga-la-ti có nhắc đến A-ga và Sa-ra, như là hình bóng về hai giao ước cũ và mới. Ông trách các tín hữu thời đó sống theo giao ước cũ của luật pháp mà không theo giao ước mới bởi đức tin trong Chúa Cứu Thế Giê-xu. Tên bà A-ga được nhắc đến khi sứ đồ Phao-lô dùng câu chuyện A-ga và Ích ma-ên, Sa-ra và Y-sác làm hình bóng cho vấn đề ông trình bày. Phao-lô nói: Ích-ma-ên là con của người nữ nô lệ còn Y-sác là con của người nữtự chủ. A-ga và Ích-ma-ên tượng trưng cho luật pháp, còn Sa-ra và Y-sác tượng trưng cho ân điển trong Chúa Cứu Thế. Khi Y-sác đến thì Ích-ma-ên phải bị loại bỏ. Tương tự như thế, luật pháp là giao ước tạm, trong một thời gian cho con dân Chúa. Khi Chúa Giê-xu đến ban cho chúng ta ân điển và sự cứu rỗi, chúng ta không còn phải sống dưới luật pháp nữa. Lời dạy này được ghi trong thư Ga-la-ti 4:21-31.
Minh Nguyên
Backlinks
URL : |
Code For Forum : |
HTML Code : |
0 nhận xét